Bệnh dại là gì? Các công bố khoa học về Bệnh dại

Bệnh dại, còn được gọi là bệnh uốn ván, là một bệnh nhiễm trùng hiếm gặp do virus dại gây ra. Virus dại thường được truyền từ động vật sang người thông qua cắn ...

Bệnh dại, còn được gọi là bệnh uốn ván, là một bệnh nhiễm trùng hiếm gặp do virus dại gây ra. Virus dại thường được truyền từ động vật sang người thông qua cắn hoặc sự tiếp xúc với nước bọt hoặc mô cơ thể của động vật bị nhiễm virus.

Bệnh dại ảnh hưởng đến hệ thần kinh và gây ra các triệu chứng như sự thay đổi giao tiếp, khó chịu, khó khăn trong việc nuốt, sợ ánh sáng và nước, phát cuồng, co giật, và cuối cùng là tử vong.

Bệnh dại là một bệnh rất nghiêm trọng và không có biện pháp điều trị hiệu quả một khi triệu chứng đã xuất hiện. Do đó, việc tiêm phòng trước khi xuất hiện triệu chứng và điều trị ngay sau khi bị cắn là quan trọng để ngăn chặn sự lây lan và điều trị bệnh dại.
Để hiểu rõ hơn về bệnh dại, dưới đây là những thông tin chi tiết về bệnh này:

1. Nguyên nhân và lây lan:
Bệnh dại được gây ra bởi virus dại (virus mang tên khoa học là Lyssavirus). Virus thường tồn tại trong nước bọt của các loài động vật, đặc biệt là chó, mèo, cáo, sói, rắn, linh dương, v.v. Người có thể bị nhiễm virus dại khi bị cắn hoặc liên lạc với nước bọt, nước tiểu hoặc mô cơ thể của động vật bị nhiễm virus.

2. Triệu chứng và giai đoạn bệnh:
Sau khi bị cắn hoặc tiếp xúc với virus dại, giai đoạn đầu tiên của bệnh kéo dài từ 1 - 3 tháng. Trong giai đoạn này, virus dại phát triển trong cơ thể mà không có triệu chứng rõ ràng. Sau đó, người mắc bệnh sẽ vào giai đoạn thứ hai, kéo dài từ 2 - 10 ngày, khi các triệu chứng đầu tiên bắt đầu xuất hiện.

Các triệu chứng thường gặp trong giai đoạn này là: sự thay đổi tâm trạng, lo âu, khó chịu, buồn nôn, khó tiếp thu thức ăn và nước, sợ ánh sáng và nước, khó ngủ, mất hứng thú và mất khả năng tự điều khiển.

Sau giai đoạn này, giai đoạn cuối cùng của bệnh dại khá nhanh chóng diễn ra. Triệu chứng cuối cùng bao gồm phát điên, co giật, sợ ngập nước, rối loạn hô hấp và tim mạch, và cuối cùng là gây ra tử vong.

3. Điều trị và phòng ngừa:
Đối với người bị cắn hoặc tiếp xúc với động vật có khả năng nhiễm virus dại, phòng ngừa bằng cách tiêm phòng là cách hiệu quả để ngăn chặn sự lây lan của virus. Vaccin phòng dại thường được sử dụng ngay sau khi tiếp xúc với virus.

Khi mắc bệnh, không có phương pháp điều trị chữa khỏi hoàn toàn cho bệnh dại. Phương pháp điều trị chủ yếu là hỗ trợ nhằm giảm triệu chứng và đảm bảo sự thoải mái cho người bệnh.

Việc nuôi dưỡng và chỉ định liều cao kháng thể dại (PCECV) và vacxin phòng dại ngay sau khi tiếp xúc với virus cũng có thể giúp ngăn chặn phát triển bệnh.

Tuy nhiên, việc duy trì tình trạng dân số động vật như chó và mèo trong một tình trạng tiêm phòng hàng năm và kiểm soát dịch tễ bệnh dại là quan trọng để giảm nguy cơ lây lan bệnh dại cho con người.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh dại":

Tỷ Lệ Mắc Bệnh Đái Tháo Đường Toàn Cầu Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 27 Số 5 - Trang 1047-1053 - 2004

MỤC TIÊU—Mục tiêu của nghiên cứu này là ước lượng tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường và số lượng người ở mọi độ tuổi mắc bệnh đái tháo đường trong các năm 2000 và 2030.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP—Dữ liệu về tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường theo độ tuổi và giới tính từ một số ít quốc gia đã được ngoại suy cho tất cả 191 quốc gia thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới và áp dụng cho ước lượng dân số của Liên Hợp Quốc trong năm 2000 và 2030. Dân số đô thị và nông thôn ở các quốc gia đang phát triển được xem xét riêng biệt.

KẾT QUẢ—Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trên toàn cầu đối với tất cả các nhóm tuổi ước tính là 2.8% vào năm 2000 và 4.4% vào năm 2030. Tổng số người mắc bệnh đái tháo đường được dự đoán sẽ tăng từ 171 triệu người vào năm 2000 lên 366 triệu người vào năm 2030. Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường cao hơn ở nam giới so với nữ giới, nhưng số lượng nữ giới mắc bệnh đái tháo đường nhiều hơn nam giới. Dân số đô thị ở các quốc gia đang phát triển được dự báo sẽ gấp đôi từ năm 2000 đến 2030. Thay đổi nhân khẩu học quan trọng nhất đối với tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới dường như là sự gia tăng tỷ lệ người >65 tuổi.

KẾT LUẬN—Những phát hiện này cho thấy rằng “dịch bệnh đái tháo đường” sẽ tiếp tục ngay cả khi mức béo phì giữ nguyên. Với tỷ lệ béo phì ngày càng tăng, có khả năng rằng những con số này chỉ ra mức dưới mức của tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trong tương lai.

#đái tháo đường #tỷ lệ mắc #béo phì #dân số toàn cầu #quốc gia đang phát triển
Ung thư Vú ở Người: Liên quan giữa tái phát và sống sót với sự khuếch đại của gen ung thư HER-2/neu Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 235 Số 4785 - Trang 177-182 - 1987
Gen ung thư HER-2/neu là một thành viên của họ gen ung thư kiểu erbB và có liên quan nhưng khác biệt so với thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì. Người ta đã chứng minh rằng gen này được khuếch đại trong các dòng tế bào ung thư vú ở người. Nghiên cứu hiện tại đã điều tra sự thay đổi của gen trong 189 trường hợp ung thư vú nguyên phát ở người. HER-2/neu phát hiện được khuếch đại từ 2 lần trở lên đến hơn 20 lần ở 30% số khối u. Mối tương quan giữa sự khuếch đại gen và nhiều thông số bệnh lý đã được đánh giá. Khuếch đại gen HER-2/neu là một dự báo quan trọng của cả tổng thể thời gian sống sót và thời gian tái phát ở bệnh nhân ung thư vú. Ý nghĩa này vẫn được giữ lại ngay cả khi có hiệu chỉnh cho các yếu tố tiên đoán đã biết khác. Hơn nữa, khuếch đại HER-2/neu có giá trị tiên đoán lớn hơn so với hầu hết các yếu tố tiên đoán hiện đang được sử dụng, bao gồm cả tình trạng thụ thể hormon, trong bệnh có nút bạch huyết dương tính. Những dữ liệu này chỉ ra rằng gen này có thể đóng một vai trò trong hành vi sinh học và/hoặc sinh bệnh lý của ung thư vú ở người.
#HER-2/neu #ung thư vú #khuếch đại gen #cán bộ tiên đoán sinh học #yếu tố bệnh lý #nghiên cứu gen
Các yếu tố tiên lượng bệnh lý trong ung thư vú. I. Giá trị của cấp độ mô học trong ung thư vú: Kinh nghiệm từ một nghiên cứu lớn với thời gian theo dõi dài hạn Dịch bởi AI
Histopathology - Tập 19 Số 5 - Trang 403-410 - 1991
Trong nhiều nghiên cứu, đánh giá về mức độ biệt hóa thông qua hình thái học đã cho thấy có giá trị trong việc cung cấp thông tin tiên lượng quan trọng cho bệnh ung thư vú. Tuy nhiên, cho đến gần đây, việc phân loại mô học vẫn chưa được chấp nhận như một quy trình thường xuyên, chủ yếu vì những vấn đề về tính nhất quán và độ chính xác. Trong Nghiên cứu Ung thư Vú Nguyên phát Nottingham/Tenovus, phương pháp phổ biến nhất do Bloom và Richardson mô tả đã được chỉnh sửa để làm cho các tiêu chí trở nên khách quan hơn. Kỹ thuật sửa đổi này bao gồm đánh giá bán định lượng ba đặc điểm hình thái: phần trăm sự hình thành ống dẫn, mức độ đa hình của nhân tế bào và đếm chính xác số lượng phân bào trong vùng trường xác định. Một hệ thống điểm số số được sử dụng và cấp độ tổng thể được tính toán từ tổng số điểm của từng biến số; ba mức độ biệt hóa được sử dụng. Từ năm 1973, hơn 2200 bệnh nhân với ung thư vú nguyên phát có thể phẫu thuật đã tham gia vào nghiên cứu các yếu tố tiên lượng đa chiều. Cấp độ mô học, được đánh giá trên 1831 bệnh nhân, cho thấy mối tương quan rất mạnh với tiên lượng; bệnh nhân có khối u ở cấp độ I có tỷ lệ sống sót cao hơn đáng kể so với những người có khối u ở cấp độ II và III (P<0.0001). Những kết quả này chứng minh rằng phương pháp phân loại mô học này cung cấp thông tin tiên lượng quan trọng và nếu theo đúng giao thức phân loại, có thể đạt được kết quả đồng nhất. Cấp độ mô học là một phần của chỉ số tiên lượng Nottingham đa yếu tố, cùng với kích thước khối u và giai đoạn hạch bạch huyết, được sử dụng để phân tầng bệnh nhân phù hợp với liệu pháp thích hợp.
Thông tin và số liệu về bệnh Alzheimer năm 2016 Dịch bởi AI
Alzheimer's & Dementia - Tập 12 Số 4 - Trang 459-509 - 2016
Tóm tắt

Bài báo này mô tả tác động của bệnh Alzheimer đối với sức khỏe cộng đồng, bao gồm tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành, tỷ lệ tử vong, chi phí chăm sóc và tác động chung lên người chăm sóc cũng như xã hội. Bài báo cũng xem xét chi tiết tác động tài chính của bệnh Alzheimer đối với các gia đình, bao gồm chi phí hàng năm và những quyết định khó khăn mà các gia đình thường phải đưa ra để chi trả cho các chi phí đó. Ước tính có khoảng 5,4 triệu người Mỹ mắc bệnh Alzheimer. Đến giữa thế kỷ này, số người sống với bệnh Alzheimer ở Hoa Kỳ dự kiến sẽ tăng lên 13,8 triệu, phần lớn do sự lão hóa của thế hệ baby boom. Hiện nay, ở Hoa Kỳ, cứ mỗi 66 giây sẽ có một người phát triển bệnh Alzheimer. Đến năm 2050, dự kiến sẽ có một ca bệnh Alzheimer mới được phát hiện mỗi 33 giây, dẫn đến gần 1 triệu ca bệnh mới mỗi năm. Năm 2013, các giấy chứng tử chính thức ghi nhận 84,767 ca tử vong do bệnh Alzheimer, khiến đây trở thành nguyên nhân thứ sáu gây tử vong ở Hoa Kỳ và thứ năm đối với người Mỹ từ 65 tuổi trở lên. Trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2013, số ca tử vong do đột quỵ, bệnh tim và ung thư tuyến tiền liệt giảm lần lượt 23%, 14% và 11%, trong khi số ca tử vong do bệnh Alzheimer tăng 71%. Số ca tử vong do bệnh Alzheimer gây ra thực tế có thể lớn hơn nhiều so với số ca tử vong do bệnh Alzheimer được ghi nhận trên giấy chứng tử. Năm 2016, dự kiến khoảng 700,000 người Mỹ trên 65 tuổi sẽ chết do bệnh Alzheimer, và nhiều người trong số họ sẽ tử vong do các biến chứng do bệnh Alzheimer gây ra. Năm 2015, hơn 15 triệu thành viên gia đình và các người chăm sóc không được trả lương đã cung cấp khoảng 18,1 triệu giờ chăm sóc cho những người mắc bệnh Alzheimer và các dạng sa sút trí tuệ khác, với giá trị ước tính trên 221 tỷ USD. Mức thanh toán trung bình theo đầu người của Medicare cho các dịch vụ cho những người thụ hưởng từ 65 tuổi trở lên mắc bệnh Alzheimer và các dạng sa sút trí tuệ khác lớn hơn gấp hai lần rưỡi so với thanh toán cho tất cả các thụ hưởng không mắc các điều kiện này, và mức thanh toán của Medicaid cao gấp 19 lần. Tổng chi phí năm 2016 cho chăm sóc sức khỏe, chăm sóc dài hạn và các dịch vụ chăm sóc y tế tận nhà cho những người từ 65 tuổi trở lên mắc bệnh sa sút trí tuệ ước tính là 236 tỷ USD. Chi phí chăm sóc bệnh Alzheimer có thể đặt gánh nặng tài chính nặng nề lên các gia đình, những người thường phải rút tiền từ tiết kiệm hưu trí, cắt giảm việc mua thực phẩm và giảm chuyến thăm bác sĩ của chính mình. Hơn nữa, nhiều thành viên trong gia đình hiểu sai rằng Medicare sẽ chi trả cho việc chăm sóc tại viện dưỡng lão và các loại chăm sóc dài hạn khác. Những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết phải tìm ra các giải pháp để ngăn chặn các chi phí liên quan đến sa sút trí tuệ làm nguy hiểm sức khỏe và an ninh tài chính của các gia đình có người mắc bệnh Alzheimer và các dạng sa sút trí tuệ khác.

#bệnh Alzheimer #sức khỏe cộng đồng #tác động tài chính #chăm sóc dài hạn #sa sút trí tuệ
Đái tháo đường, Các yếu tố nguy cơ khác và Tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch trong 12 năm ở nam giới được sàng lọc trong Thử nghiệm Can thiệp Các yếu tố Nguy cơ Đa chiều Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 16 Số 2 - Trang 434-444 - 1993
MỤC TIÊU

Xác định các yếu tố tiên đoán tử vong do bệnh tim mạch (CVD) ở nam giới có và không có bệnh tiểu đường và đánh giá ảnh hưởng độc lập của bệnh tiểu đường lên nguy cơ tử vong do CVD.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Các đối tượng tham gia trong nghiên cứu theo kiểu đoàn hệ này đã được sàng lọc từ năm 1973 đến năm 1975; tình trạng sống đã được xác định trong khoảng thời gian trung bình 12 năm theo dõi (từ 11–13 năm). Tổng cộng có 347,978 nam giới trong độ tuổi từ 35 đến 57, được sàng lọc tại 20 trung tâm cho thử nghiệm MRFIT. Biện pháp kết quả là tỷ lệ tử vong do CVD.

KẾT QUẢ

Trong số 5163 nam giới báo cáo đã sử dụng thuốc điều trị bệnh tiểu đường, đã có 1092 ca tử vong (603 ca tử vong do CVD) xảy ra trong thời gian theo dõi trung bình 12 năm. Trong số 342,815 nam giới không sử dụng thuốc tiểu đường, đã xác định được 20,867 ca tử vong, trong đó có 8965 trường hợp được xác định là tử vong do CVD. Nguy cơ tuyệt đối của tử vong do CVD cao hơn nhiều đối với nam giới tiểu đường so với nam giới không tiểu đường cho mọi nhóm tuổi, nguồn gốc dân tộc, và mức độ nguy cơ – tổng thể cao gấp ba lần, sau khi điều chỉnh theo độ tuổi, chủng tộc, thu nhập, mức cholesterol huyết thanh, huyết áp tâm thu (sBP) và số lượng thuốc lá đã báo cáo mỗi ngày (P < 0.0001). Đối với cả nam giới có và không có bệnh tiểu đường, mức cholesterol huyết thanh, sBP và thói quen hút thuốc lá là các yếu tố tiên đoán đáng kể tỷ lệ tử vong do CVD. Đối với nam giới tiểu đường có giá trị cao hơn cho từng yếu tố nguy cơ và sự kết hợp của chúng, nguy cơ tuyệt đối tử vong do CVD tăng nhanh hơn so với nam giới không tiểu đường, khiến cho nguy cơ thừa tuyệt đối cho nam giới tiểu đường ngày càng lớn hơn so với nam giới không tiểu đường có mức độ yếu tố nguy cơ cao hơn.

#Bệnh tiểu đường #Bệnh tim mạch #Tử vong #Yếu tố nguy cơ #Nghiên cứu đoàn hệ
Tổng Quan Toàn Cầu về Tỷ Lệ và Các Yếu Tố Nguy Cơ Chính của Bệnh Võng Mạc Đái Tháo Đường Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 35 Số 3 - Trang 556-564 - 2012
MỤC TIÊU

Để kiểm tra tỷ lệ toàn cầu và các yếu tố nguy cơ chính của bệnh võng mạc đái tháo đường (DR) và bệnh võng mạc đái tháo đường đe dọa thị lực (VTDR) ở những người bị tiểu đường.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Một phân tích tổng hợp sử dụng dữ liệu tham gia cá nhân từ các nghiên cứu dân số trên toàn thế giới đã được thực hiện. Một đánh giá tài liệu hệ thống đã được tiến hành để xác định tất cả các nghiên cứu dân số trong các quần thể chung hoặc cá nhân bị tiểu đường mà đã xác định được DR từ các hình ảnh võng mạc. Các nghiên cứu cung cấp dữ liệu cho các điểm cuối DR, bao gồm bất kỳ DR nào, DR phát triển, phù hoàng điểm do tiểu đường, và VTDR, cũng như các yếu tố nguy cơ hệ thống chính. Các ước tính tỷ lệ tổng hợp được chuẩn hóa theo độ tuổi trực tiếp theo dân số thế giới năm 2010 trong độ tuổi từ 20–79.

#Bệnh võng mạc đái tháo đường #Yếu tố nguy cơ #Tỷ lệ mắc #Phân tích tổng hợp #Dân số toàn cầu #Thị lực
Nồng độ Plasma của một Protein Mới, Đặc hiệu Mỡ, Adiponectin ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường Loại 2 Dịch bởi AI
Arteriosclerosis, Thrombosis, and Vascular Biology - Tập 20 Số 6 - Trang 1595-1599 - 2000

Abstract —Adiponectin là một protein mới, đặc hiệu cho mỡ, có mặt phổ biến trong tuần hoàn, và nó có các đặc tính chống xơ vữa động mạch. Chúng tôi đã phân tích nồng độ adiponectin trong huyết tương ở các đối tượng không tiểu đường và tiểu đường loại 2, khớp với độ tuổi và chỉ số khối cơ thể (BMI), có và không có bệnh động mạch vành (CAD). Nồng độ adiponectin trong huyết tương ở những bệnh nhân tiểu đường không có CAD thấp hơn so với những người không tiểu đường (6.6±0.4 so với 7.9±0.5 μg/mL ở nam giới, 7.6±0.7 so với 11.7±1.0 μg/mL ở nữ giới; P <0.001). Nồng độ adiponectin trong huyết tương ở bệnh nhân tiểu đường có CAD thấp hơn so với những bệnh nhân tiểu đường không có CAD (4.0±0.4 so với 6.6±0.4 μg/mL, P <0.001 ở nam; 6.3±0.8 so với 7.6±0.7 μg/mL ở nữ). Ngược lại, nồng độ leptin trong huyết tương không khác nhau giữa các bệnh nhân tiểu đường có và không có CAD. Sự hiện diện của vi mạch bệnh lý không ảnh hưởng đến nồng độ adiponectin trong huyết tương ở bệnh nhân tiểu đường. Các mối tương quan nghịch của univariate đáng kể đã được quan sát thấy giữa nồng độ adiponectin và insulin huyết tương lúc đói ( r =−0.18, P <0.01) và nồng độ glucose ( r =−0.26, P <0.001). Trong phân tích đa biến, insulin huyết tương không ảnh hưởng độc lập đến nồng độ adiponectin trong huyết tương. BMI, nồng độ triglycerid huyết thanh, và sự hiện diện của bệnh tiểu đường hoặc CAD vẫn có mối liên hệ đáng kể với nồng độ adiponectin trong huyết tương. Giảm cân đã làm tăng đáng kể nồng độ adiponectin trong huyết tương ở cả những bệnh nhân tiểu đường và không tiểu đường. Những kết quả này gợi ý rằng nồng độ adiponectin trong huyết tương giảm ở bệnh tiểu đường có thể là chỉ số của macroangiopathy.

Bệnh sinh học của Đái tháo đường loại 2 Dịch bởi AI
International Journal of Molecular Sciences - Tập 21 Số 17 - Trang 6275

Đái tháo đường loại 2 (T2DM), một trong những rối loạn chuyển hóa phổ biến nhất, được gây ra bởi sự kết hợp của hai yếu tố chính: sự tiết insulin bị lỗi bởi các tế bào β tụy và khả năng đáp ứng không đầy đủ của các mô nhạy cảm với insulin. Vì sự phóng thích và hoạt động của insulin là các quá trình thiết yếu cho sự cân bằng glucose, các cơ chế phân tử liên quan đến việc tổng hợp và phóng thích insulin, cũng như trong việc phát hiện insulin được điều chỉnh một cách chặt chẽ. Sự thiếu hụt trong bất kỳ cơ chế nào liên quan đến các quá trình này có thể dẫn đến sự mất cân bằng chuyển hóa chịu trách nhiệm cho sự phát triển của bệnh. Bài tổng quan này phân tích các khía cạnh chính của T2DM, cũng như các cơ chế và con đường phân tử liên quan đến chuyển hóa insulin dẫn đến T2DM và kháng insulin. Để thực hiện điều đó, chúng tôi tóm tắt các dữ liệu thu thập được cho đến nay, tập trung đặc biệt vào sự tổng hợp insulin, phóng thích insulin, nhận diện insulin và các tác động sau đó đến các cơ quan nhạy cảm với insulin riêng lẻ. Bài tổng quan cũng đề cập đến các tình trạng bệnh lý kéo dài T2DM như các yếu tố dinh dưỡng, hoạt động thể chất, rối loạn vi sinh vật đường ruột và trí nhớ chuyển hóa. Thêm vào đó, vì T2DM liên quan đến sự phát triển xơ vữa động mạch gia tốc, chúng tôi xem xét một số cơ chế phân tử liên kết T2DM và kháng insulin (IR) cũng như nguy cơ tim mạch như một trong những biến chứng quan trọng nhất trong T2DM.

Mất Độc Lập Trong Các Hoạt Động Hàng Ngày Ở Người Cao Tuổi Nhập Viện Vì Bệnh Tật: Tăng Cường Sự Dễ Tổn Thương Với Tuổi Tác Dịch bởi AI
Journal of the American Geriatrics Society - Tập 51 Số 4 - Trang 451-458 - 2003

MỤC TIÊU: Mô tả những thay đổi trong chức năng hoạt động hàng ngày (ADL) xảy ra trước và sau khi nhập viện ở người cao tuổi nhập viện với bệnh lý nội khoa và đánh giá tác động của độ tuổi đến sự mất chức năng ADL.

THIẾT KẾ: Nghiên cứu quan sát theo chiều dọc.

ĐỊA ĐIỂM: Dịch vụ y tế nội khoa chung của hai bệnh viện.

THAM GIA: Hai ngàn hai trăm chín mươi ba bệnh nhân từ 70 tuổi trở lên (tuổi trung bình 80, 64% là nữ, 24% không phải người da trắng).

ĐO LƯỜNG: Tại thời điểm nhập viện, bệnh nhân hoặc người đại diện của họ được phỏng vấn về khả năng độc lập trong năm hoạt động ADL (tắm, mặc quần áo, ăn uống, chuyển động và vệ sinh) 2 tuần trước khi nhập viện (cơ sở) và tại thời điểm nhập viện. Các đối tượng được phỏng vấn về chức năng ADL tại thời điểm ra viện. Các đo lường kết quả bao gồm sự suy giảm chức năng giữa cơ sở và ra viện cũng như những thay đổi chức năng giữa cơ sở và nhập viện và giữa nhập viện và ra viện.

KẾT QUẢ: Ba mươi lăm phần trăm bệnh nhân suy giảm chức năng ADL giữa cơ sở và ra viện. Điều này bao gồm 23% bệnh nhân suy giảm giữa cơ sở và nhập viện và không phục hồi lại chức năng cơ sở giữa nhập viện và ra viện, và 12% bệnh nhân không suy giảm giữa cơ sở và nhập viện nhưng lại suy giảm giữa nhập viện và ra viện. Hai mươi phần trăm bệnh nhân suy giảm giữa cơ sở và nhập viện nhưng phục hồi lại chức năng cơ sở giữa nhập viện và ra viện. Tần suất suy giảm ADL giữa cơ sở và ra viện thay đổi rõ ràng theo độ tuổi (23%, 28%, 38%, 50%, và 63% ở bệnh nhân từ 70–74, 75–79, 80–84, 85–89, và ≥90 tuổi, tương ứng, P < .001). Sau khi điều chỉnh cho những yếu tố gây nhiễu tiềm tàng, độ tuổi không liên quan đến sự suy giảm ADL trước khi nhập viện (tỷ lệ cược (OR) cho bệnh nhân ≥90 so với bệnh nhân từ 70–74 = 1.26, khoảng tin cậy (CI) 95% = 0.88–1.82). Ngược lại, độ tuổi có liên quan đến việc không phục hồi chức năng ADL trong thời gian nhập viện ở những bệnh nhân đã suy giảm trước khi nhập viện (OR cho bệnh nhân ≥90 so với bệnh nhân từ 70–74 = 2.09, CI 95% = 1.20–3.65) và với việc mất chức năng ADL mới trong thời gian nhập viện ở những bệnh nhân không suy giảm trước khi nhập viện (OR cho bệnh nhân ≥90 so với bệnh nhân từ 70–74 = 3.43, CI 95% = 1.92–6.12).

KẾT LUẬN: Nhiều người cao tuổi nhập viện được ra viện với chức năng ADL kém hơn so với chức năng cơ sở của họ. Những bệnh nhân lớn tuổi nhất có nguy cơ rất cao về kết quả chức năng kém vì họ ít có khả năng phục hồi chức năng ADL đã mất trước khi nhập viện và có khả năng cao hơn để phát triển các khiếm khuyết chức năng mới trong thời gian nhập viện.

Cuộc Khủng Hoảng Thuốc Giảm Đau Kê Đơn và Heroin: Cách Tiếp Cận Y Tế Công Cộng Đối Với Một Đại Dịch Nghiện Ngập Dịch bởi AI
Annual Review of Public Health - Tập 36 Số 1 - Trang 559-574 - 2015
Các cơ quan y tế công cộng đã mô tả, với sự lo ngại ngày càng tăng, về sự gia tăng chưa từng có của tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến việc sử dụng các loại thuốc giảm đau opioid (OPRs). Những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng opioid chủ yếu tập trung vào việc giảm sử dụng OPRs không theo chỉ định y tế. Tuy nhiên, điều cần thiết được xem xét quá thường xuyên là việc phòng ngừa và điều trị nghiện opioid, điều này xảy ra ở cả người sử dụng OPRs theo chỉ định y tế và không theo chỉ định y tế. Việc kê đơn quá mức OPRs đã dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ trong tỷ lệ mắc chứng nghiện opioid, điều này đồng thời liên quan đến sự gia tăng tử vong do quá liều và việc sử dụng heroin. Một cách tiếp cận y tế công cộng đa diện, sử dụng các chiến lược phòng ngừa nghiện opioid sơ cấp, thứ cấp và tam cấp là cần thiết để giảm hiệu quả tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến opioid. Chúng tôi mô tả phạm vi của cuộc khủng hoảng y tế công cộng này, bối cảnh lịch sử, các yếu tố đóng góp, và các dòng chứng cứ cho thấy vai trò của sự nghiện ngập trong việc làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, và chúng tôi cung cấp một khung can thiệp để giải quyết đại dịch nghiện opioid.
#opioid #nghiện ngập #y tế công cộng #phòng ngừa #tỷ lệ mắc bệnh #thuốc giảm đau #điều trị
Tổng số: 1,834   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10